Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012
Tương lai, tiền mặt có còn được sử dụng?
Các nền kinh tế sẽ ngày càng hạn
chế sử dụng tiền mặt của Chính phủ tiến đến việc không dùng tiền mặt của Chính
phủ trong thanh toán. Vì việc thanh toán không sử dụng tiền mặt mang lại nhiều
lợi ích cho các cá nhân và cho nền
kinh tế.
Trước hết phải kể đến
tính thanh khoản, tiền ngân hàng (từ đây sẽ gọi chung cho các loại tiền dùng để
thanh toán nhưng không phải tiền mặt) là loại tiền có tính thanh khoản cao thứ
2, chỉ đứng sau tiền mặt. Hiện nay, các nước phát triển thanh toán thông qua
các dịch vụ thẻ, séc, … rất phổ biến. Tại Việt Nam, hình thức không dùng tiền mặt
còn hạn chế do nhiều yếu tố như: tỷ lệ dân thành thị còn thấp, dịch vụ thanh
toán chưa phát triển đến tận xã, nhiều doanh nghiệp chưa sẵn sàng với việc
thanh toán không dùng tiền mặt do phải chi một phần tiền phí dịch vụ cho ngân
hàng,…
Thứ hai là sự tiện lợi, an
toàn. Chỉ việc mang theo một chiếc thẻ thanh toán đa năng thay vì mang theo cả
bóp tiền như trước đây là chúng ta có thể thực hiện hầu hết tất cả giao dịch.
Tính an toàn cũng cao hơn. Người dùng không cần phải lo nghĩ đến việc bị mất
tiền, vì dù cho kẻ trộm có lấy được chiếc thẻ, nhưng không biết được mã bảo mật
thì chiếc thẻ chỉ là một thứ đồ chơi.
Thứ ba là hạn chế tối đa
nguy cơ hư hỏng tiền do các yếu tố khách quan. Mang theo thẻ thanh toán sẽ hạn
chế các nguy cơ rách rã, cũ, ẩm móc,…
Thứ
tư, đối với nền kinh tế, giảm sử dụng tiền mặt trong thanh toán góp phần thu
hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội; tăng nguồn vốn cho đầu tư, mở rộng sản
xuất (do lượng tiền mặt trong lưu thông càng ít càng làm tăng hệ số tạo tiền);
tăng khả năng kiểm soát khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHTW; giảm thiểu
tối đa nguy cơ tiền giả,…
Chính
vì vậy, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt giảm
đáng kể. Những số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong các năm gần
đây, Việt Nam đã đạt được những bước tiến dài trong việc hạ tỷ lệ thanh toán bằng
tiền mặt. Năm 2006, tỷ lệ này là trên 17,2%. Cuối năm 2011, dự kiến tỷ lệ này
xuống còn 13,5%.
Thanh toán không dùng tiền mặt mang
lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Nhưng nó cũng có những hạn chế nhất định. Thanh
toán không dùng tiền mặt phát triển khi kinh tế phát triển. Đó cũng là lúc đào
sâu hố giàu – nghèo, làm cho người nghèo càng khó tiếp cận đến các hình thức mới.
Vì vậy, thanh toán không dùng tiền Chính phủ là một lộ trình dài, nhưng không
phải là bất khả thi.
Tài liệu tham khảo:
1) Số liệu từ NHNN Việt Nam
2) TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Viện Trưởng Viện Chiến lược Ngân hàng, THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT LỢI ÍCH KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN.
Lạm phát và tăng trưởng cung tiền M2
Năm
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Lạm phát (%)
|
7.39
|
8.30
|
23.12
|
7.05
|
8.86
|
Tăng trưởng M2 (%)
|
29.67
|
49.11
|
20.70
|
26.23
|
29.71
|
Biểu đồ trên biểu
thị mức độ lạm phát và tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 so với năm trước tại Việt
Nam giai đoạn 2006 – 2010 (Hình 1). Điều đáng chú ý trong giai đoạn này chính
là mức độ lạm phát ở năm 2008 đạt 23.12% (mức cao nhất trong giai đoạn 2006 –
2010) và mức thấp nhất là 7.05% (năm 2009). Nhưng một thực tế khác là mức độ
tăng cung tiền M2 tại năm 2008 là 20.70% (mức thấp nhất trong giai đoạn 2006 –
2010) và mức cao nhất là 49.11% vào 1 năm trước đó – 2007. Do đó, vấn đề đặt ra
ở đây là liệu có tồn tại một mối quan hệ giữa hai biến số: mức độ tăng cung tiền
M2 và chỉ số lạm phát?
Theo nhà kinh tế học người Mỹ
Irving Fisher, thì lượng tiền tệ đối với nền kinh tế được xác định dựa trên
công thức:
PY = MV (1) hay M’ + V’ = P’ + Y’(2),
suy ra P’ = M’ + V’ – Y’ (3)
Tại đó: M’ là tốc độ tăng tiền tệ; V’ là tốc độ tăng của
vòng quay tiền tệ; P’ là tốc độ tăng giá (lạm phát); và Y’ là tốc độ tăng GDP
theo giá không đổi.
Fisher cho rằng V là
nhân tố gần như bất biến trong thời gian ngắn và số lượng thu nhập danh nghĩa
PY được quyết định bởi số lượng tiền tệ M. Từ đó giá cả hàng hóa biến động tùy
thuộc vào số lượng tiền tệ trong lưu thông. Như vậy, theo (3), lạm phát sẽ phụ
thuộc lớn vào mức tăng cung tiền (trong khi các yếu tố V, Y tương đối ổn định).
Trên thực tế, Y’ của Việt Nam có xu hướng khó dự đoán trong những năm gần đây
(Hình 3). Mặt khác, tuy vòng quay tiền tệ V của Việt Nam có xu hướng giảm dần
giai đoạn trước từ 2006 về trước, nhưng từ năm 2007 đến nay, vòng quay tiền tệ
có xu hướng biến động thất thường (Hình 4).
Từ những
phân tích trên, có thể kết luận: trong tức thời thì việc thay đổi cung tiền
chưa thật sự ảnh hưởng đến tình trạng lạm phát.
1) World Bank: http://data.worldbank.org/country/vietnam
2) TS. Nguyễn Phi Lân – Vụ Dự báo, Thống kê tiền tệ, NHNN, Cầu tiền trong mối quan hệ với lạm phát và chính sách tiền tệ của Việt Nam.
Thứ Hai, 14 tháng 5, 2012
TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN NGOẠI THƯƠNG
I.
Khái niệm
Tỷ giá hối
đoái là tỷ giá để đối lấy tiền của một nước khác (Paul Anthony Samuelson – Nhà
kinh tế học người Mỹ).
Tỷ giá là
một đồng tiền của một quốc gia nào đó bằng giá trị của một số lượng tiền của một
quốc gia khác (Ralph Slatyer – Nhà kinh tế học người Úc).
Tỷ giá hối
đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng
tiền của hai nước khác nhau. (Wikipedia tiếng Việt).
Tỷ giá hối
đoái là quan hệ tỷ lệ so sánh giữa đồng tiền nước này với đồng tiền nước khác
trên cơ sở hàm lượng vàng hoặc sức mua của các đồng tiền đó (Theo PGS. TS. Nguyễn
Đăng Dờn, 2009, Thanh toán quốc tế, nhà xuất bản ĐH Quốc gia TP. HCM).
II.
Tác động của tỷ giá đến ngoại thương
1.
Phá
giá tiền tệ: xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm.
VDXK: $ 1 = VND 20.000, 1 tấn gạo = 10.000.000đ
= $ 500
$
1 = VND 25.000, 1 tấn gạo = 10.000.000đ = $ 400
ð
Đẩy
mạnh xuất khẩu, hàng hóa có tính cạnh tranh hơn do giá thành hạ.
VDNK: $
1 = VND 20.000, 1 máy tính = $ 800 = 16.000.000đ
S 1 = VND 25.000, 1 máy tính = $ 800 = 20.000.000đ
S 1 = VND 25.000, 1 máy tính = $ 800 = 20.000.000đ
ð
Hạn
chế nhập khẩu, mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp do chi phí tăng.
2.
Nâng
giá nội tệ: xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng.
VDXK: $ 1 = VND 20.000, 1 tấn gạo =
10.000.000đ = $ 500
$ 1 = VND 16.000, 1 tấn
gạo = 10.000.000đ = $ 625
ð
Hạn
chế xuất khẩu do giá thành tăng làm giảm tính cạnh tranh.
VDNK: $
1 = VND 20.000, 1 máy tính = $ 800 = 16.000.000đ
S 1 = VND 16.000, 1 máy tính = $ 800 = 12.800.000đ
S 1 = VND 16.000, 1 máy tính = $ 800 = 12.800.000đ
ð
Đẩy
mạnh nhập khẩu do chi phí thấp.
III.
Liên hệ Việt Nam
1.
Qua
các năm: (nguồn: WB)
Năm
|
2002
|
2003
|
2004
|
2005
|
2006
|
2007
|
2008
|
2009
|
2010
|
Tỷ giá
|
15,337
|
15,602
|
15,717
|
15,863
|
16,055
|
16,145
|
16,494
|
17,171
|
18,932
|
Xuất khẩu (triệu USD)
|
16,706
|
20,149
|
26,485
|
32,447
|
39,826
|
48,561
|
62,685
|
57,096
|
72,192
|
Nhập khẩu (triệu USD)
|
17,760
|
22,730
|
28,772
|
34,886
|
42,602
|
58,999
|
75,468
|
64,703
|
77,339
|
CCXNK
(triệu USD) |
-1,054
|
-2,581
|
-2,287
|
-2,439
|
-2,776
|
-10,438
|
-12,783
|
-7,607
|
-5,147
|
Nhận xét: Nhìn chung khi tỷ giá tăng (phá giá nội tệ) sẽ làm thu hẹp chênh lệch CCTM
2.
Ví
dụ cụ thể
Ngày 11/02/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành
văn bản số 74/TB-NHNN nâng tỷ giá giữa USD/VND thêm 9.30%, từ 18,932 lên
20,693.
Tác động: Cải thiện cán cân thương mại. Thâm hụt
thương mại hàng hóa 2010 lên tới 12.4 tỷ USD, bằng 17.3% kim ngạch xuất khẩu.
Các nghiên cứu Vietstock cho thấy cán cân thương mại của Việt Nam có mối quan hệ
chặt chẽ với tỷ giá, và việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ có tác dụng tích cực
trong việc cải thiện thâm hụt thương mại.
Đồng nội tệ giảm giá sẽ làm cho các doanh nghiệp xuất
khẩu gặp nhiều thuận lợi hơn khi hàng hóa sản xuất có sức cạnh tranh hơn, trong
khi đó nhập khẩu sẽ giảm đi và cán cân thương mại được cải thiện.
Tuy
vậy, cần lưu ý rằng tỷ giá chỉ là một trong những nhân tố gây thâm hụt thương mại
cao tại Việt Nam. Yếu tố chính vẫn là các dòng tiền từ bên ngoài đổ vào Việt
Nam như FDI, FPI, ODA, kiều hối và các chính sách thương mại khác.
Nguồn tham khảo:
1)
Wikipedia
Tiếng Việt
2)
Báo
điện tử Kiến thức
3)
World
Bank
4) Ngân
hàng Nhà nước
Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012
la làng buổi trưa
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)